Obi của nữ Obi (khăn thắt lưng)

Các phần của một obi cho phụ nữ:
1. tsuke/tsukuri/kantan obi
2. hanhaba obi
3. Nagoya obi
4. Fukuro obi
5. Maru obi

Loại obi rộng của phụ nữ được xếp làm đôi khi đeo, có chiều rộng khoảng 15 xentimét (5,9 in) đến 20 xentimét (7,9 in). Một obi khi thắt được coi là thanh lịch khi mà chiều rộng bản gấp hài hòa với kích thước cơ thể của người sử dụng. Thông thường, tỉ lệ lý tưởng của phần này là bằng khoảng một phần mười chiều cao của người phụ nữ. Chiều rộng toàn bộ của obi chỉ được trình bày trong nút thắt trang trí, musubi.

Một obi dành cho nữ được đeo với một nút thắt musubi lộng lẫy. Có tổng cộng mười cách để thắt một chiếc obi, và các nút thắt khác nhau phù hợp với những dịp khác nhau và bộ kimono khác nhau.

Có nhiều loại obi dành cho phụ nữ, và việc sử dụng chúng được quy định bởi nhiều nguyên tắc bất thành văn, không khác gì những quy tắc liên quan đến bản thân bộ kimono. Một số loại obi được sử dụng với một số loại kimono; obi của phụ nữ kết hôn và chưa kết hôn được thắt với nhiều cách khác nhau. Thường thì obi ảnh hưởng đến độ trang trọng và lộng lẫy của toàn bộ trang phục kimono: cùng một bộ kimono có thể mặc trong những tình huống rất khác nhau tùy thuộc vào loại obi mang với nó.[14]

Các loại obi dành cho nữ

Nagoya obi, loại phổ biến nhất cho kimono trên khắp Nhật BảnTsuke obi ngắn hơn nhiều so với các loại obi khác.Phần vòng cung riêng biệt của một chiếc tsuke obi được đính vào bằng móc dây.Cô gái mặc một bộ yukata. Một hiệu ứng nổi bật được tạo ra bằng cách gấp phần obi đảo ngược để lộ mặt dưới có tính tương phản.
  • Darari obi (だらり帯, Darari obi?) là một loại maru obi rất dài được đeo bởi maiko. Một darari obi của maiko có dấu hiệu kamon của người chủ sở hữu okiya ở cuối vạt khăn. Một darari obi có thể dài tới 600 xentimét (20 ft).
  • Fukuro obi (袋帯, Fukuro obi? "obi cái đẫy") là một loại kém trang trọng về đẳng cấp hơn maru obi[15] và là loại obi trang trọng nhất được thực sự sử dụng ngày nay.[5] Nó được làm bằng cách xếp làm đôi miếng vải hoặc may hai miếng vải vào nhau. Nếu sử dụng hai miếng vải, loại vải dùng cho mặt sau của obi có thể rẻ hơn và mặt trước có thể may bằng loại vải như thổ cẩm. Không tính các trang phục kết hôn, fukuro obi đã thay thế maru obi nặng nề như loại obi được sử dụng trong lễ nghi và dịp kỉ niệm.[16] Fukuro obi thường được làm phần không lộ ra khi đeo bằng loại lụa trơn, mỏng và mềm hơn.[15] Một fukuro obi rộng khoảng 30 xentimét (12 in) và dài khoảng 360 xentimét (11,8 ft) tới 450 xentimét (14,8 ft).
    Khi đeo, fukuro obi hầu như không khác gì một maru obi.[15] Fukuro obi được làm thành khoảng ba loại con. Loại trang trọng và đắt tiền nhất trong số chúng được làm từ loại vải thổ cẩm có hoạ tiết ở cả hai mặt. Loại thứ hai có hoạ tiết ở khoảng hai phần ba diện tích khăn, được gọi là "fukuro obi 60%", và nó hơi rẻ hơn và nhẹ hơn loại đầu tiên. Loại thứ ba chỉ có hoạ tiết trên những phần nổi bật khi đeo obi trong nút thường gặp taiko musubi.[5]
  • Fukuro Nagoya obi (袋名古屋帯, Fukuro Nagoya obi?) hoặc hassun Nagoya obi (八寸名古屋帯, hassun Nagoya obi? "Nagoya obi tám tấc") là loại obi được may làm hai ở phần bắt đầu nút thắt taiko. Phần quấn xung quanh cơ thể được xếp lại khi bắt đầu. Loại fukuro Nagoya obi được dùng để tạo ra loại taiko musubi hai lớp trang trọng hơn, gọi là nijuudaiko musubi. Nó dài khoảng 350 xentimét (11,5 ft).[16]
  • Hoso obi (細帯, Hoso obi? "khăn mỏng") là một tên gọi tập hợp các loại obi không trang trọng với một nửa độ dài ban đầu. Hoso obi rộng 15 xentimét (5,9 in) hoặc 20 xentimét (7,9 in) và dài khoảng 330 xentimét (10,8 ft).[16]
    • Hanhaba obi (半幅帯[17] / 半巾帯, Hanhaba obi? "obi nửa độ dài") là một loại obi không có viền[16] và không trang trọng được sử dụng với yukata, loại kimono mặc thường ngày.[15] Hanhaba obi rất phổ biến trong những ngày này.[18] Để dùng với yukata, loại hanhaba obi đảo ngược khá phổ biến: chúng có thể được gấp lại và xoắn theo nhiều cách để tạo ra các hiệu ứng màu sắc.[19] Một hanhaba obi rộng khoảng 15 xentimét (5,9 in) và dài khoảng 300 xentimét (9,8 ft) tới 400 xentimét (13 ft). Việc thắt loại obi này tương đối dễ dàng,[18] và việc sử dụng nó không cần có các miếng đệm hoặc dây buộc phụ.[14] Các loại nút dùng cho hanhaba obi thường là những kiểu giản lược bunko-musubi. Khi người ta ngày càng "chấp nhận" việc chơi với một loại obi không trang trọng, hanhaba obi đôi khi được đeo theo nhiều phong cách tự sáng chế ra, thường với các dải lụa và các vật trang trí.[18][19]
    • Kobukuro obi (小袋帯, Kobukuro obi?) là một loại hoso obi không viền với chiều rộng khoảng 15 xentimét (5,9 in) hoặc 20 xentimét (7,9 in) và dài khoảng 300 xentimét (9,8 ft).[16]
  • Hara-awase obi (典雅帯, Hara-awase obi?) hoặc chūya obi (昼夜帯, chūya obi? "obi ngày và đêm") là một loại obi không trang trọng[2] có các mặt có màu khác nhau. Nó thường được thấy trong các tranh ảnh từ thời kỳ Edo và Minh Trị, nhưng ngày nay hầu như không được sử dụng.[5] Một chūya obi ("ngày và đêm") có một mặt màu tối, trang trí nhẹ nhàng và một mặt khác, rực rỡ hơn và vui tươi hơn. Bằng cách này, loại obi này có thể đeo được trong cả cuộc sống thường ngày và cho lễ hội. Loại obi này rộng khoảng 30 xentimét (12 in) và dài khoảng 350 xentimét (11,5 ft) tới 400 xentimét (13 ft).
  • Heko obi (兵児帯, Heko obi? "obi mềm") là một loại obi rất bình dân được làm từ vải mềm, mỏng,[14] thường được nhuộm với shibori.[16] Theo truyền thống, nó thường được dùng như một loại obi không trang trọng cho trẻ em và đàn ông,[16][20] và đôi khi nó được coi là hoàn toàn không phù hợp với phụ nữ. Ngày nay, các bé gái và phụ nữ có thể đeo heko obi với những loại kimono hiện đại không trang trọng và yukata. Một heko obi cho người trưởng thành có kích cỡ bằng với kích cỡ thông thường của obi, rộng khoảng 20 xentimét (7,9 in) tới 30 xentimét (12 in) và dài khoảng 300 xentimét (9,8 ft).[20]
  • Hitoe obi (単帯, Hitoe obi? "obi đơn"[21]) được làm từ loại vải lụa cứng đến mức obi không cần lớp lót hoặc may cứng lại. Một trong các loại vải này là Hakata ori (博多織, Hakata ori?), bao gồm một loại sợi dày dệt ngang đan xen với loại sợi mỏng dệt dọc với một bản dệt ken đặc và chặt;[22] loại obi làm từ loại chất liệu này cũng được gọi là Hakata obi (博多帯, Hakata obi?). Hitoe obi có thể đeo với kimono thường ngày hoặc yukata.[2][21] Một hitoe obi rộng khoảng 15 xentimét (5,9 in) tới 20 xentimét (7,9 in) (loại hanhaba obi)[16] hoặc 30 xentimét (12 in) và dài khoảng 400 xentimét (13 ft)[16].
  • Kyōbukuro obi (京袋帯, Kyōbukuro obi? "fukuro obi thủ đô") được phát minh vào thập niên 1970 ở Nishijin, Kyoto.[16] Nó có cách dùng phối hợp giữa Nagoya obi và fukuro obi, và có thể được sử dụng để làm nổi bật trang phục thường ngày.[16] Kyōbukuro obi có cấu trúc giống như fukuro obi, nhưng ngắn như một chiếc Nagoya obi.[16] Do đó, nó cũng có thể được đeo ngược lại từ trong ra ngoài như các loại obi lộn ngược.[16] Kyōbukuro obi rộng khoảng 30 xentimét (12 in) và dài 350 xentimét (11,5 ft).[16]
  • Maru obi (丸帯, Maru obi? "obi một mảnh") là loại obi trang trọng nhất. Nó được may từ một miếng vải rộng khoảng 68 cm[20] và được gấp lại quanh lớp lót kép và khâu lại với nhau. Maru obi nổi tiếng nhất vào thời kỳ Đại ChínhMinh Trị.[15] Độ lớn và khối lượng của chúng khiến người dùng khó làm chủ được maru obi, và ngày nay chúng chủ yếu được đeo bởi các geisha, maiko và những người tương tự. Một cách dùng khác cho maru obi là như một phần trong trang phục của cô dâu trong lễ thành hôn.[15] Maru obi rộng khoảng 30 xentimét (12 in) tới 35 xentimét (14 in) và dài khoảng 360 xentimét (11,8 ft) tới 450 xentimét (14,8 ft),[16][18] được thêu hoa văn toàn bộ[20] và thường được trang trí với sợi chỉ và chi tiết trang trí có chạm trổ bọc kim loại.[14]
  • Nagoya obi (名古屋帯, Nagoya obi?) – hoặc để phân biệt với fukuro Nagoya obi, cũng gọi là kyūsun Nagoya obi (九寸名古屋帯, kyūsun Nagoya obi? "Nagoya obi chín tấc")[16] – là loại obi được sử dụng nhiều nhất ngày nay. Nagoya obi được phân biệt bởi cấu trúc của nó: một đầu được gấp lại và được khâu lại một nửa, đầu còn lại có chiều rộng đầy đủ.[15] Điều này làm cho việc đeo obi trở nên dễ dàng hơn. Nagoya obi có thể được thêu hoa văn một phần hoặc toàn bộ. Nó thông thường chỉ được đeo theo phong cách taiko musubi, và nhiều chiếc Nagoya obi được thiết kế để chỉ có hoạ tiết ở phần nổi bật nhất trong nút thắt. Nagoya obi ngắn hơn các loại obi khác, dài khoảng 315 xentimét (10,33 ft) tới 345 xentimét (11,32 ft), nhưng có cùng chiều rộng, khoảng 30 xentimét (12 in).[18]
    Loại Nagoya tương đối mới, nó được phát triển bởi một thợ may sống ở Nagoya vào cuối những năm 1920. Loại obi mới dễ dùng mới, dễ sử dụng đã trở nên phổ biến trong giới geisha ở Tokyo, từ đó loại obi này đã được tiếp nhận bởi các cô gái thành phố thời thượng cho việc sử dụng hàng ngày của họ.[5]
    Tính trang trọng và nổi bật của một chiếc Nagoya obi phụ thuộc vào vật liệu của nó, giống như các loại obi khác. Khi mà Nagoya obi ban đầu được sử dụng như phục trang thường ngày, nó không bao giờ có thể là một phần của một bộ trang phục nghi lễ thực sự, nhưng một Nagoya obi được làm từ loại thổ cẩm thượng hạng có thể được chấp nhận như một phục trang bán nghi lễ.[5]
    Thuật ngữ Nagoya obi cũng có thể đề cập tới một loại obi cùng tên khác, được sử dụng nhiều thế kỷ trước đó. Loại Nagoya obi này có cấu trúc giống như một băng đeo nhỏ.[2]
  • Odori obi (踊帯, Odori obi? "obi nhảy múa") là tên gọi của một loại obi sử dụng trong các động tác nhảy múa.[2] Một chiếc odori obi thường to, thêu hoạ tiết đơn và có hoạ tiết có màu kim loại để khán giả có thể dễ dàng nhìn thấy. Odori obi có thể rộng từ 10 xentimét (3,9 in) tới 30 xentimét (12 in) và dài từ 350 xentimét (11,5 ft) tới 450 xentimét (14,8 ft). Khi thuật ngữ "odori obi" chưa được tạo ra, nó có thể đề cập tới bất kì loại obi nào có ý nghĩa dành cho nhảy múa.[2]
  • Sakiori obi (, Sakiori obi?) là một loại obi dệt được may bằng cách dùng các dải hẹp hoặc có độ rộng khoảng một mét từ trang phục cũ dệt lại với nhau. Sakiori obi được dùng với kimono để mặc ở nhà. Sakiori obi tương tự như hanhaba obi về kích cỡ và rất bình dân.
  • Tenga obi (典雅帯, Tenga obi? "obi tao nhã") giống với một hanhaba obi nhưng trang trọng hơn. Nó thường rộng hơn và được làm từ loại vải tao nhã hơn, phù hợp hơn với lễ hội. Các hoạ tiết chủ yếu bao gồm các mô típ may mắn và có tính lễ hội. Tenga obi rộng khoảng 20 xentimét (7,9 in) và dài từ 350 xentimét (11,5 ft) tới 400 xentimét (13 ft).
  • Tsuke obi (付け帯, Tsuke obi?) hoặc tsukuri obi (作り帯, tsukuri obi?) hoặc kantan obi (簡単帯, kantan obi? "obi đơn giản") là bất kì loại obi nào được thiết kế sẵn sàng để thắt. Nó thường có một phần nút riêng rẽ được hỗ trợ bởi bìa và một phần được bao lại xung quanh eo. Tsuke obi được thắt cố định bởi các dải lụa.[23] Tsuke obi thông thường rất bình dân[21] và chúng chủ yếu được dùng với yukata.

Phụ kiện cho obi của nữ

Cấu trúc của loại nút thắt phổ biến taiko musubi (nút dạng cái trống). Obijime có màu xám trung bình, obiage có màu xám đậm. Obimakura được giấu bởi obiage.
  • Obiage (帯揚げ, Obiage? "lót áo cho obi"[24]) là một phần vải giống như cái khăn choàng che phần obimakura[25] và giúp giữ cố định phần trên của nút thắt obi.[2][21] Những ngày này, một người phụ nữ trẻ chưa kết hôn theo truyền thống sẽ để phần obiage lộ ra ở bên dưới đằng trước obi. Một người phụ nữ đã kết hôn sẽ giấu nó sâu hơn và chỉ cho phép nó lộ ra một khoảng nhỏ. Obiage có thể được coi như một phần trang phục lót cho kimono, vì vậy việc để lộ một phần rộng thể hiện một chút khêu gợi trong đó.
  • Obidome (帯留, Obidome? "cái kẹp khăn"[24]) là một phụ kiện trang trí nhỏ được gắn lên trên obijime.[25]
  • Obi-ita là một vật làm cứng riêng rẽ giúp giữ phẳng obi.[2][25] Nó là một miếng bìa mỏng được phủ vải và được đặt giữa các lớp obi khi đeo obi vào.[25] Some types of obi-ita are attached around the waist with cords before the obi is put on.[25]
  • Obijime (帯締め, Obijime?) là một sợi dây dài khoảng 150 xentimét (4,9 ft)[25] được buộc quanh obi và luồn qua nút thắt,[25] và giúp nhân đôi yếu tố trang trí.[20] Nó có thể là một sợi dây đan lại, hoặc được may thành dạng ống vải hẹp.[20] Chúng đều là các loại obijime phẳng và tròn.[20] Chúng thường có tua rua ở cả hai đầu[20] và được làm từ lụa, satin, thổ cẩm[20] hoặc viscose.[25] Một obijime dạng dây hoặc dạng ống độn bông thường được coi là vui tươi và hợp với lễ hội hơn là một obijime dạng phẳng.[25]
  • Obimakura (帯枕, Obimakura? "gối obi") là một cái gối nhỏ để giúp hỗ trợ và định hình nút thắt obi.[2] Loại nút thắt phổ biến nhất hiện nay, taiko musubi, được thực hiện bằng cách sử dụng một obimakura dạng vòng kéo dài.[25]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Obi (khăn thắt lưng) http://www.gojapango.com/fashion/obi_types.html http://www.ichiroya.com/glossary.htm http://www.ichiroya.com/moreaboutobi/moreaboutobi.... http://www.japanesekimono.com/childrens_kimono.htm http://kimonomuseum.com/ http://www.kimonoplace.com/glossary.html http://www.traditional-japanese-kimono.com/Kimono-... http://www.ui-kimono.com/obi/index.html http://www.yoshinoantiques.com/kimono.html http://id.loc.gov/authorities/subjects/sh85093650